Tóm tắt
Bài viết đề cập đến quá trình chuyển đổi số trong cơ sở giáo dục phổ thông để kiến tạo các giá trị giáo dục cho người dạy, người học và hệ thống giáo dục trong bối cảnh cuộc cách mạng công nghiệp 4.0. Khi giáo dục kiến tạo giá trị càng phát triển, công nghệ thông tin sẽ giúp học sinh học tập kiến tạo chủ động, năng suất, thuận tiện hơn; nhà trường quản lý được hành trình tự học, tương tác với giáo viên, xây dựng kiến thức của học sinh; rút ngắn quá trình kiến tạo tri thức, đặc biệt ở quy mô số đông người học. Ngoài ra, định hướng kiến tạo giá trị giáo dục trong các cơ sở giáo dục phổ thông trong bối cảnh mới còn thúc đẩy tạo ra hạnh phúc ở trường học. Cơ sở giáo dục phổ thông thực hiện chuyển đổi số cần thực hiện 3 bước: (1) Chuyển đổi và sử dụng dịch vụ số; (2) Chuyển đổi quy trình, hoạt động; (3) Vận hành hệ thống. Chuyển đổi số trong giáo dục phổ thông kiến tạo các giá trị cho người học, người dạy và các cơ sở giáo dục phổ thông. Nếu chuyển đổi số được thực thi ở các cơ sở giáo dục phổ thông, việc xem xét các tác động tích cực về sự kiến tạo đã đề cập cũng là yêu cầu để đảm bảo hiệu quả của chuyển đổi số trong thực tiễn.
Từ khóa: chuyển đổi số, giáo dục phổ thông, kiến tạo, giá trị giáo dục, năng lực số, phẩm chất số.
CREATE EDUCATIONAL VALUE THROUGH DIGITAL TRANSFORMATION IN THE GENERAL EDUCATION INSTITUTIONS
Abstract
The article addresses the digital transformation process in general education institutions to create educational values for teachers, learners and the education system in the context of the 4.0 industrial revolution. As value-creating education develops, information technology will help students learn more proactively, productively, and conveniently; the school can manage the self-study process, interact with teachers, and build students' knowledge; shorten the knowledge creation process, especially at the scale of a large number of learners. In addition, the orientation to create educational values in general education institutions in the new context also promotes happiness at school. General education institutions implementing digital transformation need to take 3 steps: (1) Convert and use digital services; (2) Transforming processes and activities; (3) System operation. Digital transformation in general education creates values for learners, teachers and general education institutions. If digital transformation is implemented in general education institutions, considering the positive impacts of the mentioned creation is also a requirement to ensure the effectiveness of digital transformation in practice.
Keywords: digital transformation, general education, construction, educational values, digital competencies, digital qualities.
1. Đặt vấn đề
Đào tạo điện tử hay học tập điện tử (e-Learning) là “việc sử dụng công nghệ thông tin và máy tính trong học tập” (Horton, 2011). Theo Naidu (2006), thuật ngữ e-Learning bao hàm: “học có ứng dụng ICT, học có sự trợ giúp của máy tính, học trực tuyến, học với môi trường ảo, học dựa vào Web và học từ xa” (Naidu, 2006). Xu hướng đào tạo dưới các hình thức e-Learning tăng vọt trong vài năm trở lại đây, và không thể phủ nhận những lợi ích cụ thể mà e-Learning đã mang đến cho người học như: linh hoạt; tiết kiệm; học ở mọi lúc mọi nơi; giúp người học gia tăng và cải thiện năng lực bản thân qua các trải nghiệm học tập và tự nghiên cứu trên hệ thống đào tạo trực tuyến.
Trong giáo dục, chủ nghĩa kiến tạo được hiểu là việc người học không ở vai thụ động tiếp nhận kiến thức từ nhà trường mà có sự chủ động xây dựng tri thức, hiểu biết cho bản thân thông qua quá trình tự học, tự trải nghiệm, tương tác với môi trường và thể hiện kiến thức cá nhân từ trải nghiệm đó. Những năm gần đây, các trường học tại Việt Nam đã từng bước chuyển hoá theo mô hình này. Với giáo dục phổ thông, việc học không chỉ để thi mà quan trọng hơn để phát triển nhân cách, đáp ứng nhu cầu công việc xã hội cần, khẳng định giá trị bản thân và tìm kiếm ước mơ của người học. Đây cũng chính là quan điểm quan trọng trong đổi mới giáo dục phổ thông hiện nay.
Cộng với sự bùng nổ của công nghệ và hoạt động chuyển đổi số - đặc biệt là trong và sau đại dịch Covid-19, quá trình này càng được thúc đẩy nhanh hơn bao giờ hết. Việc học giờ đây không còn giới hạn trong khuôn khổ thầy giảng - trò nghe, học tập thụ động, kiểm tra khả năng ghi nhớ, học thuộc… người học ngày nay tự xây dựng hiểu biết mang tính cá nhân của riêng họ thông qua các phần mềm, công cụ hỗ trợ cũng như nguồn dữ liệu mở và các trải nghiệm online, offline. Khi giáo dục kiến tạo giá trị càng phát triển, công nghệ thông tin sẽ giúp học sinh học tập kiến tạo chủ động, năng suất, thuận tiện hơn; nhà trường quản lý được hành trình tự học, tương tác với giáo viên, xây dựng kiến thức của học sinh; rút ngắn quá trình kiến tạo tri thức, đặc biệt ở quy mô số đông người học. Ngoài ra, định hướng kiến tạo giá trị giáo dục trong các cơ sở giáo dục phổ thông trong bối cảnh mới còn thúc đẩy tạo ra hạnh phúc ở trường theo 3 tiêu chí giá trị: An toàn – Yêu thương – Tôn trọng. Vì vậy, việc kiến tạo các giá trị giáo dục trong bối cảnh chuyển đổi số (CĐS) tại các cơ sở giáo dục phổ thông mang tính cấp thiết và nên có các bước tiến, mô hình bền vững; nhất là học hỏi và kế thừa từ các mô hình chuyển đổi số tại các cơ sở giáo dục đại học, giáo dục phổ thông trên thế giới và Việt Nam. Đây cũng chính là nguyên tắc đảm bảo việc chuyển đổi số, phát triển giáo dục số hiện nay ở các cơ sở giáo dục nói chung và cơ sở giáo dục phổ thông nói riêng.
2. Giải quyết vấn đề
CĐS trong giáo dục phổ thông (GDPT) là sự thay đổi mối quan hệ chức năng giữa các thành phần và tổng thể làm thay đổi môi trường GDPT và thay đổi văn hóa học thuật, tác động đến cá nhân và xã hội. Benavides và cộng sự (2020) đã tiến hành nghiên cứu tổng quan về CĐS trong các cơ sở GDPT, xác định rằng CĐS thay đổi các hoạt động hình thành và đánh giá của tổ chức dạy học và giáo dục trong cơ sở GDPT, quá trình quản lý, nghiên cứu, mở rộng của tổ chức cũng như cá nhân và xã hội. CĐS trong GDPT vượt ra ngoài các công nghệ mới trong học tập và giảng dạy. Đó là một sự đổi mới về học thuật, chương trình giảng dạy, tổ chức và cấu trúc, vì những công nghệ này tạo ra những vai trò mới cho người dạy và người học, là hoạt động tìm kiếm cuối cùng và đạt được những vai trò cộng tác và tự chủ hơn (Bond et al., 2018).
Đối với GDPT, CĐS chính là nâng cao hiệu lực hiệu quả quản trị, nâng cao chất lượng đào tạo, phục vụ cho sự phát triển của đất nước. Về bản chất, CĐS không thay đổi giá trị cốt lõi hay mô hình của một tổ chức GDPT mà là sự chuyển đổi hoạt động cốt lõi thông qua công nghệ và nền tảng số, đồng thời nắm bắt các cơ hội mà chúng mang lại. Nói cách khác, CĐS là sự giao thoa giữa công nghệ và chiến lược đào tạo.
Hiểu một cách khái quát, CĐS trong giáo dục là ứng dụng công nghệ kỹ thuật số và hệ thống thông tin internet vào lĩnh vực giáo dục để nâng cao chất lượng giảng dạy, học tập và quản lý giáo dục. Bao gồm cải tiến phương pháp giảng dạy, cải tiến các thiết bị, dụng cụ hỗ trợ học tập, nâng cao trải nghiệm của học sinh, sinh viên và người tham gia đào tạo. CĐS giúp tạo ra môi trường học tập nơi mà mọi thứ kết nối với nhau. Sự kết hợp mới mẻ của công nghệ, bảo mật nhằm thu hẹp khoảng cách địa lý để tạo ra trải nghiệm trong học tập, đồng thời tăng cường sự tương tác của mọi người. Tuy nhiên, công tác CĐS trong giáo dục cũng đặt ra một số thách thức, bao gồm việc đảm bảo truy cập công bằng đến công nghệ, đào tạo và hỗ trợ cho giáo viên và học sinh, và đảm bảo an toàn và bảo mật thông tin trong môi trường số. Cơ sở GDPT thực hiện CĐS cần thực hiện 3 bước sau:
Bước 1: Chuyển đổi và sử dụng dịch vụ số
Cơ sở GDĐH cần phải xác định các dịch vụ quan trọng cần phải CĐS trước để thúc đẩy sự chuyển đổi quy trình, hoạt động. Sử dụng cơ sở hạ tầng đang có hoặc đầu tư thêm cơ sở hạ tầng để cung cấp dịch vụ số cơ bản cho các bên liên quan. Theo Ylber Limani thì dịch vụ số của cơ sở GDĐH gồm 5 nhóm như trong Bảng 1.
Bảng 1. Dịch vụ số của cơ sở giáo dục phổ thông
Nhóm
|
Dịch vụ
|
Hành chính -Quản trị
|
Các dịch vụ số về hành chính và quản trị phục vụ viên chức và sinh viên như Website cung cấp thông tin và biểu mẫu hành chính, Email, văn phòng điện tử, hệ thống thông tin tích hợp, các quy trình quản lý.
|
Giao tiếp
|
Cách dịch vụ phục vụ giao tiếp dạng số giữa viên chức trong trường học, giữa giáo viên với phụ huynh, học sinh và các bên liên quan như Email, văn phòng điện tử, diễn đàn trao đổi, Fanpage.
|
Học liệu số
|
Các dịch vụ cung cấp học liệu số cho giáo viên và học sinh như thư viện số và dịch vụ thư viện.
|
Giảng dạy và học tập
|
Các dịch vụ phục vụ giảng dạy và học tập bằng công nghệ số như hệ thống thông tin tích hợp, hệ thống e-learning.
|
Kiểm tra, đánh giá
|
Các dịch vụ liên quan đến ôn tập, kiểm tra và thi như hệ thống thi trắc nghiệm trực tuyến, chức năng tổ chức kiểm tra và thi của hệ thống e-learning.
|
Bước 2: Chuyển đổi quy trình, hoạt động
Cơ sở GDPT xây dựng lại quy trình, nội dung hoạt động dựa trên các dịch vụ số. Hơn nữa, cần phải bổ sung các nội dung dịch vụ số vào các quy định quản lý của cơ sở GDPT. Chuyển đổi quy trình, hoạt động đòi hỏi cơ sở GDPT phải xem xét các tác nhân, thành phần và hiệu quả của CĐS trong giáo dục bởi việc chuyển đổi quy trình, hoạt động vẫn phải hướng đến hiệu quả tốt hơn của cơ sở GDPT nhất là tính hiệu quả phải thể hiện rõ ở chức năng, hoạt động và trách nhiệm của cơ sở GDPT theo quy định.
Hình 1. Tác nhân, thành phần và hiệu quả của CĐS trong giáo dục phổ thông

Bước 3: Vận hành hệ thống
Kết nối dịch vụ số với quy trình, nội dung hoạt động số để vận hành cơ sở GDPT. Có thể tóm tắt các nhiệm vụ CĐS trong GDPT qua mô hình sau:
Hình 2. Tổng quát nhiệm vụ CĐS trong giáo dục (Học viện quản lý giáo dục, 2022)

Có thể nhận thấy, CĐS trong GDPT là việc áp dụng công nghệ kỹ thuật số vào mọi hoạt động ở một cơ sở GDPT, tận dụng các công nghệ số để thay đổi căn bản cách thức vận hành hoạt động của Nhà trường, thay đổi mô hình dạy học phù hợp với nhu cầu của người học và thay đổi phương thức quản lý Nhà trường, cung cấp các giá trị mới, dựa vào mục đích cơ cấu lại bộ máy tổ chức tại cơ sở giáo dục. Do đó, để có thể CĐS được cơ sở GDPT, cần có sự nỗ lực quyết liệt từ phía đội ngũ CBQL đến giáo viên tại trường cùng hòa nhập vào cuộc cách mạng CĐS. Trên cơ sở này, nhóm tác giả đề xuất một số hướng ứng dụng CĐS trong GDPT theo 3 hình thức sau:
(1) Ứng dụng công nghệ trong phương pháp giảng dạy, sử dụng các thành tựu của khoa học, công nghệ vào đổi mới hoạt động giảng dạy trong GDPT, giúp người học thực hiện vai trò chủ động hơn trong học tập thông qua thực hiện số hóa tài liệu, giáo trình, xây dựng nền tảng tài nguyên số cho giảng dạy. Điều này đã làm thay đổi cách dạy học truyền thống một chiều, không còn tình trạng GV luôn là người giảng và đặt câu hỏi, còn người học chỉ trả lời và ghi chép một cách máy móc. Ví dụ như trong dạy học truyền thống: Ứng dụng trình chiếu PowerPoint, sử dụng máy chiếu, kết hợp đa phương tiện vào bài giảng; nhưng cách ứng dụng mới là dạy học qua nền tảng lớp học ảo, các lớp học trực tuyến, sử dụng tính năng bảng trắng kỹ thuật số Whiteboard, trang bị màn hình tương tác thông minh trong lớp học. Có thể thấy việc ứng dụng công nghệ, lớp học đã ngày càng sinh động, thu hút sự chú ý và gia tăng khả năng tiếp cận học tập của người học hơn. Ngoài ra, ứng dụng CĐS vào công tác giảng dạy và học tập ở cơ sở GDPT còn ứng dụng trong thực hiện kiểm tra, đánh giá kết quả học tập, kết quả giáo dục của người học.
(2) Ứng dụng công nghệ trong lớp học như ứng dụng phần mềm quản lý lớp học giúp thống kê điểm số, đánh giá sự tiến bộ của từng người học và phân chia nhóm, quản lý mức độ tham gia của người học. Các ứng dụng quản lý lớp học nổi bật hiện nay như Schoology là phần mềm cho phép xây dựng hồ sơ giảng dạy, quản lý bài giảng của người dạy cũng như bài tập của người học. Ngoài ra, ứng dụng Schoology còn cho phép tạo một mạng xã hội giúp người dạy và người học chia sẻ kiến thức, kỹ năng và tương tác với nhau ngoài lớp học; moodle là hệ thống giúp gửi thông báo từ trường đến người học nhanh chóng, cung cấp các tính năng như thống kê điểm số, giao bài tập, đăng tải bài học, tạo bài thi, bài khảo sát… Hoặc myViewBoard là một nền tảng quản lý giúp đánh giá mức độ tham gia của từng người học, có khả năng chia nhóm để người học trao đổi, thảo luận với nhau. Ngoài ra, người học có thể giơ tay mỗi khi muốn phát biểu, hệ thống sẽ gửi thông báo đến người dạy.
(3) Ứng dụng công nghệ trong quản lý Nhà trường: Ứng dụng CĐS để quản lý trong giáo dục, trong quản trị trường học đã sử dụng phần mềm quản lý SMAS, ứng dụng trong quản lý các lớp đào tạo từ xa, điều kiện học viên khó tập trung về trường để học tập. SMAS là từ viết tắt cho “School Management System” là giải pháp để quản trị trong lĩnh vực giáo dục của Tập đoàn Công nghiệp Viễn thông Quân đội Viettel dành cho các cơ sở GDPT, các phòng, sở cho phép quản lý thông tin thuận tiện, đáp ứng được nhu cầu liên kết thông tin các cấp quản lý có liên quan, tổng hợp nhanh và báo cáo tình hình dạy học. SMAS đảm bảo tính an toàn và bảo mật cao. Tất cả dữ liệu của Trường, đội ngũ giảng viên và học viên đều được đảm bảo, ngoài ra khi có các sự cố bảo mật luôn được khắc phục trong thời gian ngắn nhất.
Trong những năm gần đây, Việt Nam đang dần hướng đến một hệ sinh thái giáo dục 4.0. Hệ sinh thái mới nổi này sẽ có sự tương tác lớn hơn giữa con người, máy móc và công nghệ kỹ thuật số để phục vụ tốt hơn nhu cầu của xã hội. Dù nền công nghiệp 4.0 dựa trên nền tảng công nghệ cao nhưng yếu tố con người vẫn sẽ được đặt lên hàng đầu. Triết lý của công nghiệp 4.0 không dựa trên một ngành công nghiệp không có con người, mà là sự thay đổi theo định hướng con người dựa trên nguyên tắc công nghệ phải phục vụ con người. Xu hướng công nghệ sẽ tiếp tục mang lại những thay đổi căn bản cho mọi giai đoạn giáo dục cũng như trong các lĩnh vực khác của cuộc sống (Lizut, Marzano & Grewinski, 2018). Do đó, điều quan trọng là phải lường trước tác động của những công nghệ này ở mọi giai đoạn giáo dục và thực hiện các bước cần thiết. Với thực tế này, tất yếu phải CĐS các cơ sở GDPT để đáp ứng nhu cầu nhân lực có trình độ cao của quá trình chuyển đổi năng động này. Từ các lập luận trên, có thể thấy rằng việc CĐS trong cơ sở GDPT tác động đến nhiều bên liên quan khác nhau trong đó trực tiếp và chịu tác động lớn nhất là người học và người dạy, kế tiếp là đội ngũ hành chính văn phòng, đội ngũ quản lý, những người phải trực tiếp thao tác, vận hành hệ thống. Các nhà lãnh đạo và ra quyết sách cấp cao trong ngành giáo dục cũng cần phải thay đổi tư duy quản lý. Để thực hiện CĐS trong cơ sở GDPT trên bình diện khái quát, từ nhận thức đến hành động, từ chuẩn bị đến đầu tư, từ quản trị đến quản lý cần đảm bảo các yêu cầu cơ bản.
Trước nhất, CĐS đòi hòi hạ tầng công nghệ mới, trang thiết bị mới cho cả người học, người trực tiếp giảng dạy, cơ sở giáo dục và cơ quan quản lý. Đi kèm thiết bị phần cứng là các ứng dụng phần mềm, các nền tảng (platform) để toàn bộ mọi hoạt động giáo dục và quản lý của các cấp diễn ra trên đó. Nếu như ứng dụng CNTT vào giáo dục chủ yếu đề cập đến những chương trình, phần mềm riêng lẻ, tách biệt, CĐS yêu cầu tất cả những thứ riêng lẻ này phải tương thích và kết nối với nhau, tích hợp và ‘có thể tiếp cận được’ trên cùng một nền tảng. Nền tảng này cho phép các hoạt động giảng dạy, quản lý, học tập, kiểm tra, đánh giá, thi cử, quản lý người học và việc giảng dạy, cũng như toàn bộ việc tương tác giữa người học với người dạy và nhà trường cùng diễn ra. Đường truyền Internet ổn định là yếu tố cần phải có để platform này hoạt động.
Thứ hai, để vận hành một hệ thống này đòi hỏi NL tư duy và NL quản lý của lãnh đạo ngành giáo dục cũng như lãnh đạo nhà trường phải thay đổi. Họ phải tìm ra cách thức nắm bắt những gì có thể trên không gian ảo, khai thác hiệu quả công nghệ cho mục đích này. Họ cần trang bị hiểu biết và tư duy số để có thể làm chủ công nghệ và hiểu rõ giới hạn của công nghệ.
Thứ ba, CĐS cũng không thể thành công nếu những người trực tiếp thực hiện việc đào tạo không có đủ năng lực sử dụng công nghệ. Người dạy cần phải hình dung được họ sẽ “nhìn thấy” học sinh của mình học tập như thế nào nếu không trực tiếp gặp mặt và họ có thể nắm bắt và đánh giá được những gì từ phía người học. Tất nhiên trong quá trình này họ luôn phải có sự hỗ trợ đồng hành của các nhân viên kỹ thuật và các chuyên gia công nghệ để đảm bảo việc giảng dạy diễn ra suôn sẻ, trôi chảy. Họ cũng cần có những kỹ năng mới để tổ chức hoạt động giảng dạy, “giữ” được học sinh trong “lớp học”, duy trì sự chú tâm của học sinh vào các nhiệm vụ và hoạt động học tập. Họ là yếu tố hàng đầu và quan trọng nhất quyết định sự thành công của đào tạo trực tuyến và quá trình CĐS. Cơ sở GDPT truyền thống hầu như không có “định biên” cho nhân viên IT. Nhưng khi triển khai đào tạo trực tuyến diện rộng, một số vị trí hành chính không còn, thay vào đó là đội ngũ kỹ thuật viên. Tất nhiên các nhà trường luôn có giải pháp thuê ngoài dịch vụ này nhưng phân bổ chi thường xuyên thay đổi, dẫn tới việc thực hành quản trị và quản lý tài chính nhà trường cũng thay đổi theo.
Thứ tư, yếu tố quan trọng tiếp theo quyết định ý nghĩa của CĐS trong cơ sở GDPT là sự sẵn sàng tiếp nhận của người học. Người học cần được chuẩn bị về tâm thế, tinh thần và kỹ năng, và được hỗ trợ để đảm bảo điều kiện hạ tầng thiết bị đủ để thực hiện học tập trực tuyến. Họ cũng cần được hướng dẫn về phương pháp học tập trực tuyến sao cho hiệu quả.
Thứ năm, văn hóa giáo dục số, gồm các vấn về đề thái độ học tập, hiểu biết về đạo đức học thuật, tính tự giác, ý thức về học tập suốt đời cũng như cần được xây dựng phát triển trong cộng đồng người học và người dân nói chung. Đối với đào tạo trực tiếp, việc kiểm soát quá trình đào tạo phần lớn thuộc về cơ sở giáo dục và giảng viên, trong khi đối với đào tạo trực tuyến, người học cũng phải chia sẻ nhiệm vụ này.
Thứ sáu, về môi trường giáo dục, cần có hệ thống chính sách cấp hệ thống và cấp cơ sở giáo dục phù hợp để đào tạo trực tuyến được công nhận hợp pháp. Cuối cùng, về lâu dài để giáo dục trực tuyến có thể phát triển bền vững, NCKH giáo dục và đào tạo sư phạm cần bổ sung các nội dung và trọng tâm nghiên cứu ứng dụng về giáo dục trực tuyến hoặc phát triển NL CĐS của đội ngũ người dạy, người học và CBQL nhà trường.
Trên cơ sở những phân tích này, chúng tôi đề xuất khung định hướng CĐS trong GDPT gồm 6 yếu tố. Khung này được phát triển dựa trên khung lý thuyết về CĐS trong giáo dục do Bumann và Peter (2019) đề xuất:
Hình 3. Khung chuyển đổi số trong cơ sở giáo dục

Ngoài ra, cần xem xét CĐS từ góc độ các đơn vị cơ sở ở các cơ sở GDPT, từ góc độ nhánh chức năng, nhiệm vụ (thư viện, y tế học đường, tư vấn tâm lý học đường…) cho thấy CĐS phải thực sự được nhận thức và triển khai một cách đồng bộ và nhất quán. Có như vậy, CĐS mới đảm bảo các ý nghĩa như đã phân tích và góp phần đảm bảo chất lượng giáo dục cũng như phát triển phẩm chất, năng lực của người học một cách đích thực, đúng nghĩa. Có thể phân tích việc kiến tạo các giá trị thông qua chuyển đổi số ở cơ sở giáo dục phổ thông như sau:
* Kiến tạo với người học
Việc ứng dụng công nghệ số sẽ giúp người học phát triển được năng lực số (bao gồm tri thức và các kỹ năng số), có thời gian học tập thoải mái mọi lúc mọi nơi. Người học tiếp thu kiến thức dễ dàng hơn, bỏ qua về giới hạn khoảng cách, tiết kiệm thời gian, nâng cao hiệu quả. Nhờ có CĐS, người học có khả năng tiếp cận nhiều tài liệu học tập hơn, tiết kiệm thời gian và chi phí. Đồng thời, người học dễ dàng tìm kiếm thông tin và khai thác chuyên sâu các khía cạnh mà họ quan tâm. Người học cũng có thể dễ dàng tiếp cận với hồ sơ, lịch sử học tập, bảng điểm của bản thân. Đây là việc vô cùng quan trọng trong việc đồng nhất cũng như minh bách hóa thông tin học tập của người học. Ngoài ra các thành tựu công nghệ như Big data giúp lưu trữ mọi kiến thức lên không gian mạng giúp người học có thể nhanh chóng tiếp cận với tư liệu học tập. Từ đó giúp người học phát triển các phẩm chất số liên quan đến sự trung thực, chăm chỉ và trách nhiệm trong việc tìm kiếm thông tin, bảo mật thông tin và tự rèn luyện bản thân trên môi trường số. Quan trọng nhất, CĐS trong GDPT giúp kiến tạo cho người lối tư duy hiện đại và lối sống của người công dân toàn cầu, từng bước tiến vào sự phát triển của xã hội hiện đại và mưu cầu hạnh phúc chính đáng.
* Kiến tạo với người dạy
CĐS ở GDPT kiến tạo cho người dạy những năng lực số quan trọng của người giáo viên thời đại mới: năng lực ứng dụng CNTT trong dạy học, năng lực NCKH số, năng lực tư duy số, năng lực giao tiếp số, năng lực giảng dạy số, năng lực tạo động lực học tập số cho học sinh… nhằm tạo ra sự thích ứng của bản thân GV với bối cảnh cuộc cách mạnh công nghiệp 4.0, đảm bảo phát triển các năng lực, phẩm chất của người học theo yêu cầu của chương trình GDPT 2018. Ngoài ra, CĐS ở GDPT còn kiến tạo cho GV: (1) sự hiểu biết về công nghệ, không có hiểu biết về công nghệ đồng nghĩa với việc giáo viên không thể thực hiện chuyển đổi số trong giáo dục, giáo viên bị hạn chế về phương pháp dạy học. Đồng thời, học sinh cũng bị hạn chế cơ hội học tập, phát triển, khó có thể tiếp cận với tri thức, hệ thống học tập số hóa; (2) cập nhật kiến thức thường xuyên, một vấn đề bức thiết của thời đại công nghệ số chính là kiến thức nhanh chóng bị lạc hậu. Yêu cầu đặt ra cho giáo viên là phải nhanh chóng bắt kịp những thay đổi, cập nhật kiến thức mới thường xuyên. Giáo viên không nên dạy học lệ thuộc hoàn toàn vào sách giáo khoa mà cần linh hoạt, chủ động trong việc tổ chức dạy học; (3) phải có phương pháp sư phạm, phương pháp sư phạm nắm giữ vai trò vô cùng quan trọng đối với người thầy trong thời đại này. Giáo viên cần phải học phương pháp một cách bài bản, cần có những trải nghiệm để vận dụng phương pháp một cách thông minh nhất và hiệu quả nhất. Với mỗi đối tượng học sinh, người thầy sẽ áp dụng những phương pháp khác nhau, giáo viên phải có sự nhạy bén, tinh tế, sáng tạo để làm cho quá trình học tập không còn là quá trình 1 chiều chuyển giao kiến thức, mà là quá trình tạo ra các tổ chức hoạt động để cho người học chủ động tìm kiếm tri thức. Trong bối cảnh CĐS, giáo viên là những người hướng dẫn, cố vấn và huấn luyện học sinh đào sâu các ý tưởng, giúp các em học và hiện thực hóa các ý tưởng ấy. Trên thực tế, để không bị công nghệ thay thế thì giáo viên cần làm được những điều mà công nghệ chưa làm được. Công việc của nhà giáo đặc biệt vì người thầy lao động bằng trái tim, lao động để nuôi dưỡng trái tim. Khi người thầy sử dụng trái tim để giáo dục học sinh thì họ sẽ tạo ra những đứa trẻ biết thương yêu, biết quan tâm, hình thành nhân cách, đạo đức, lối sống. Đó chính là một trong những nhiệm vụ cao quý mà robot không bao giờ thay thế được vị trí của người thầy trong thời đại 4.0.
* Kiến tạo với văn hóa của cơ sở giáo dục phổ thông
CĐS trong GDPT mở ra nhiều cơ hội trong việc cải thiện và phát triển giáo dục, đáp ứng nhu cầu học tập của người dân trong thời đại công nghệ 4.0. Một số cơ hội nổi bật:
- Tăng cường cơ sở hạ tầng kỹ thuật: Sự phát triển của công nghệ thông tin và internet tạo điều kiện thuận lợi cho việc mở rộng giáo dục trực tuyến. Việc đầu tư vào cơ sở hạ tầng kỹ thuật, bao gồm mạng internet nhanh và ổn định, sẽ giúp thúc đẩy giáo dục số.
- Mở rộng tiếp cận công nghệ: Đảm bảo rằng học sinh, giáo viên và nhà trường có khả năng sử dụng công nghệ là một cơ hội lớn. Điều này giúp tất cả các bên liên quan tận dụng các công cụ và ứng dụng kỹ thuật số để nâng cao chất lượng giáo dục.
- Phát triển nội dung số hóa: CĐS trong GDPT cần có nội dung số hóa phù hợp với nhu cầu giảng dạy và học tập hiện đại. Việc tạo ra và chia sẻ nội dung giáo dục số đa dạng và chất lượng là một cơ hội quan trọng để nâng cao hiệu quả giảng dạy và học tập.
- Sự phát triển của hệ thống học trực tuyến: Các nền tảng học trực tuyến và khóa học trực tuyến mở cung cấp cơ hội cho mọi người tiếp cận giáo dục một cách linh hoạt và phù hợp với nhu cầu cá nhân, không phân biệt giới tính, địa lý hay tình trạng kinh tế.
- Hỗ trợ và đầu tư từ chính phủ và các tổ chức: Chính phủ và các tổ chức đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy chuyển đổi số giáo dục. Hỗ trợ tài chính, đầu tư vào đề án nghiên cứu và phát triển công nghệ giáo dục, cũng như xây dựng các chính sách phù hợp giúp tạo ra môi trường thuận lợi cho chuyển đổi số trong giáo dục.
- Tích hợp công nghệ vào quy trình giảng dạy: Công nghệ giúp nâng cao phương pháp giảng dạy, tạo ra môi trường học tập tương tác và hấp dẫn hơn. Các công cụ như bảng trắng thông minh, phần mềm giáo dục và ứng dụng di động có thể giúp tăng cường sự tương tác giữa giáo viên và học sinh, đồng thời thúc đẩy sự sáng tạo và kỹ năng tư duy.
- Phát triển kỹ năng số cho giáo viên và học sinh: Để thành công trong CĐS giáo dục, cần đảm bảo rằng cả giáo viên và học sinh đều có kỹ năng cần thiết để sử dụng công nghệ. Đào tạo, tập huấn về chuyển đổi số trong giáo dục và hỗ trợ liên tục giúp thầy cô và học sinh làm quen và phát triển kỹ năng số của họ.
- Ứng dụng trí tuệ nhân tạo (AI) trong giáo dục: Trí tuệ nhân tạo đang mở ra nhiều cơ hội mới trong lĩnh vực giáo dục, bao gồm hệ thống học tập cá nhân hóa, phân tích dữ liệu học tập và hỗ trợ giáo viên trong việc giảng dạy. Việc tận dụng AI trong giáo dục giúp nâng cao hiệu quả học tập và đáp ứng nhu cầu đa dạng của học sinh.
- Hợp tác giữa các bên liên quan: Sự hợp tác giữa các nhà trường, doanh nghiệp, tổ chức phi chính phủ và chính phủ là rất quan trọng để đạt được chuyển đổi số thành công trong giáo dục. Mối quan hệ hợp tác giữa các bên liên quan giúp tận dụng tài nguyên, chia sẻ kinh nghiệm và đưa ra các giải pháp phù hợp với từng đối tượng.
- Thúc đẩy nghiên cứu và đổi mới trong giáo dục: Nghiên cứu và đổi mới trong giáo dục là cơ hội để phát triển các công cụ, phương pháp giảng dạy mới và nâng cao chất lượng giáo dục. Việc khuyến khích và hỗ trợ nghiên cứu tiểu luận, cũng như chấp nhận sự thay đổi và đổi mới, sẽ giúp tạo ra một môi trường giáo dục tiên tiến hơn.
Những cơ hội này cho thấy rằng CĐS trong GDPT đang kiến tạo và mở ra nhiều triển vọng hấp dẫn. Để đạt được thành công trong quá trình này, cần có sự đồng lòng và phối hợp của toàn xã hội, bao gồm cả giáo viên, học sinh, gia đình, cộng đồng và chính phủ.
3. Kết thúc vấn đề
Ở mỗi cơ sở GDPT, cần xem xét cấu trúc quản trị để có thể xác định được mô hình CĐS được “nhúng” vào như thế nào. Về cơ bản, mô hình cấu trúc chung sẽ là cơ sở thực tiễn nếu chưa tái cơ cấu để việc CĐS xác định được lõi trung tâm cũng như nhiệm vụ tổng thể. Bên cạnh đó, điểm xuất phát CĐS và các vấn đề liên đới phát sinh cũng cần được dự phòng trước để đảm bảo tính hiệu quả. Kế đến, việc xác định các mô thức CĐS theo đặc trưng, xác định các yêu cầu bảo mật hay kết nối cũng sẽ diễn ra để đảm bảo tính khả thi và đồng bộ nhưng an toàn và có tác động tích cực, phát triển bền vững. Nhìn chung, CĐS trong GDPT là một hành trình với từng chặng đường từng bước thực hiện số hóa các nhiệm vụ, nhánh chức năng trong tổ chức của từng cơ sở GDPT. Do đó, để CĐS thành công, lãnh đạo nhà trường cần có được tầm nhìn và lựa chọn mô hình CĐS phù hợp với bối cảnh và khả năng đáp ứng về cơ sở vật chất của trường, từ đó lập lộ trình CĐS theo từng nhánh chức năng hoặc từng nhiệm vụ trong từng phòng, ban chức năng, để từng bước CĐS thành công. Ngoài ra, việc xác định rõ giá trị giáo dục của nhà trường trong bối cảnh mới, nhất là định hướng xây dựng trường học hạnh phúc, là một bước tiến quan trọng thúc đẩy CĐS thành công ở một cơ sở GDPT, bởi nếu không có giá trị giáo dục, nhà trường không thể vận hành hết công suất với những nguồn lực đã có và cũng khó có thể CĐS một cách có trọng điểm và rõ ràng từng bước một.
Có thể khẳng định, CĐS trong giáo dục phổ thông kiến tạo các giá trị cho người học, người dạy và các cơ sở GDPT. Đây là vấn đề cần xem xét một cách cẩn trọng khi CĐS bởi chỉ khi đáp ứng các yêu cầu về kiến tạo này thì CĐS mới đảm bảo đúng và đủ ý nghĩa của mình. Hơn thế nữa, nếu CĐS được thực thi ở các cơ sở giáo dục phổ thông, việc xem xét các tác động tích cực về sự kiến tạo đã đề cập cũng là yêu cầu để đảm bảo hiệu quả của CĐS trong thực tiễn.
Tài liệu tham khảo
1. Bond, M., Marín, V. I., Dolch, C., Bedenlier, S., & Zawacki-Richter, O. (2018). Digital transformation in German higher education: student and teacher perceptions and usage of digital media. International journal of educational technology in higher education, 15(1), 1-20.
2. Học viện Quản lý giáo dục (2022). Tài liệu bồi dưỡng Theo tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp giảng viên đại học. Hà Nội.
3. Horton, W. (2011). E-learning by design. John Wiley & Sons.
4. Lizut, J., Marzano, G., & Grewinski, M. (2018, May). Educating for future jobs. In Society. Integration. Education. Proceedings of the International Scientific Conference (Vol. 5, pp. 338-347).
5. Naidu, S. (2006). E-learning: A guidebook of principles, procedures and practices. Commonwealth Educational Media Centre for Asia (CEMCA).