Thách thức chuyển đổi số giáo dục tại Việt Nam
Trong giáo dục, chuyển đổi số đang trở thành một xu hướng quan trọng và không thể phủ nhận trong thế giới hiện đại, không chỉ giúp cung cấp giáo dục chất lượng mà còn tạo cơ hội bình đẳng cho tất cả mọi người trên toàn thế giới, mỗi người đều có điều kiện tiếp cận giáo dục một cách linh hoạt và phù hợp với nhu cầu cá nhân, không phân biệt địa vị giàu nghèo, vị trí địa lý hay độ tuổi. Tại Việt Nam, ảnh hưởng của đại dịch Covid-19 đã tạo ra một cuộc cách mạng trong giáo dục, các giáo viên, nhà quản lý giáo dục đã chủ động tìm đến các giải pháp công nghệ nhằm hỗ trợ việc dạy và học từ xa. Không chỉ dừng lại ở việc là giải pháp tạm thời trong giai đoạn đối phó với đại dịch Covid-19, chuyển đổi số trong lĩnh vực giáo dục đem lại nhiều lợi ích cho nhà trường cả trong ngắn hạn, trung hạn và dài hạn.
Năm 2020, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 749/QĐ phê duyệt “Chương trình Chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030” trong đó xác định Giáo dục là một trong 8 lĩnh vực cần được ưu tiên thực hiện chuyển đổi số. Chuyển đổi số đã, đang và sẽ là yêu cầu bắt buộc để các cơ sở giáo dục phải thực hiện để bảo đảm kế hoạch tiến độ, bảo đảm chất lượng đào tạo, bảo đảm mọi hoạt động trong tổ chức đào tạo và quản lý để hướng đến phát triển bền vững; góp phần đào tạo nhân lực có chất lượng, bảo đảm cho phát triển kinh tế.
Tuy nhiên, chuyển đổi số trong ngành giáo dục hiện nay cũng đang phải đối diện với rất nhiều thách thức. Để chuyển đổi số thành công, quyết tâm chính trị của toàn ngành giáo dục là một trong những yếu tố tiên quyết. Vì vậy, ngành giáo dục cần có kế hoạch dài hạn để xây dựng hệ thống giáo dục số bền vững nhằm đảm bảo sự phát triển đồng đều và hiệu quả của các chính sách trên toàn quốc. Ở các vùng miền xa, nhiều giáo viên và phụ huynh vẫn còn giữ tư duy truyền thống về giáo dục, cho rằng việc học trực tiếp ở trường vẫn là hiệu quả hơn so với việc học trực tuyến. Điều này khiến họ chưa sẵn sàng thay đổi để tiếp nhận các phương pháp giảng dạy, học tập mới. Ngoài ra nhiều giáo viên không muốn thay đổi cách dạy cũ vì nhiều những khó khăn trong quá trình tiếp cận công nghệ hiện đại.
Việc triển khai hạ tầng công nghệ trong lĩnh vực giáo dục cũng vấp phải những khó khăn mang tính đặc thù của ngành. Trên thế giới, các nước phát triển đã đầu tư mạnh mẽ vào cơ sở hạ tầng mạng và thiết bị giáo dục, giúp học sinh và giáo viên truy cập dễ dàng vào nội dung giáo dục trực tuyến. Một số nước có chất lượng kết nối đường truyền internet cao và được phủ sóng rộng rãi, trong khi các quốc gia đang phát triển gặp khó khăn về cơ sở hạ tầng. Tại Việt Nam, việc đầu tư vào cơ sở hạ tầng giáo dục đã được tăng cường trong những năm gần đây, tuy nhiên khả năng tiếp cận giữa các khu vực và các vùng miền vẫn còn khoảng cách chênh lệch rất lớn. Những thiếu hụt về hạ tầng cơ sở vật chất không những gây ra hạn chế trong chất lượng dạy và học mà còn dẫn đến sự bất bình đẳng trong giáo dục. Các kho tài liệu số khi được thiết lập cũng gặp nhiều khó khăn do hạn chế về kinh phí, thiếu nguồn nhân lực chất lượng cao. Đồng thời nhiều kiến thức được đăng tải nhưng chưa được xác thực, chưa đồng nhất toàn bộ về kiến thức gây lãng phí thời gian, ngân sách. Bên cạnh đó, một số những quy định pháp lý chuyên về giáo dục chưa được hoàn thiện gây ảnh hưởng tiêu cực đến quyền sở hữu trí tuệ và an ninh thông tin.
Nhận thức rõ về sự khác nhau giữa chuyển đổi số và ứng dụng công nghệ thông tin trong Giáo dục
Chuyển đổi số ngành Giáo dục Thành phố Hồ Chí Minh là quá trình thay đổi về tư duy, cách thức hành động của cá nhân và vận hành của tổ chức trong hệ thống giáo dục. Sự thay đổi này được tạo điều kiện bởi công nghệ, được phát triển bởi sự tiếp nhận và tham gia tích cực của cộng đồng và được dẫn dắt bởi sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế từ khai thác nguồn vốn tài chính sang khai thác nguồn vốn dữ liệu.
Ngày 05 tháng 03 năm 2023, Cục Chuyển đổi số Quốc gia – Bộ Thông tin và Truyền thông vừa có Công văn số 244/CĐSQG-CSS gửi Sở Thông tin và Truyền thông các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương về việc thống nhất nhận thức chung về sự khác nhau giữa CNTT và chuyển đổi số. Xét khía cạnh về giáo dục, có 3 điểm khác nhau cần lưu ý:

1. Chuyển trọng tâm từ tổ chức sang người dạy và người học: Ứng dụng CNTT tập trung mang lại giá trị cho cán bộ quản lý nhiều hơn. Chuyển đổi số tập trung vào mang lại giá trị cho giáo viên, học sinh và phụ huynh. Lấy người dùng, người sử dụng làm trung tâm.
2. Chuyển từ phần mềm riêng lẻ sang nền tảng số dùng chung: Công nghệ thông tin chỉ nói đến phần mềm. Phần mềm là viết cho một phòng ban, một tổ chức, một xã, một huyện, một tỉnh. Chuyển đổi số thì xuất hiện khái niệm nền tảng số. Nền tảng số là một phần cứng, một phần mềm nhiều người dùng chung trên phạm vi toàn tỉnh, toàn quốc, toàn cầu. Ngoài ra, nền tảng số không chỉ đơn thuần là phần mềm giải quyết một việc nào đó mà là một môi trường làm việc.
3. Chuyển từ ứng dụng công nghệ sang chuyển đổi cách làm việc: Công nghệ thông tin thì nói đến ứng dụng công nghệ thông tin. Nó giống như một công cụ. Công nghệ thông tin cung cấp một công cụ để thực hiện tự động hóa một việc cũ, một cách làm cũ, một quy trình cũ. Chuyển đổi số thì chuyển đổi là danh từ, số là tính từ. Chuyển đổi cách làm là chính, là mục tiêu, công nghệ số chỉ là phương tiện thực hiện.
Kiến trúc tổng thể và công tác quản trị dữ liệu ngành Giáo dục và Đào tạo TPHCM
Mục đích của quản trị dữ liệu là phát triển các chính sách và quy trình toàn ngành nhằm đảm bảo dữ liệu của ngành dễ tiếp cận, thể hiện chính xác thông tin và mục đích sử dụng và có thể dễ dàng chia sẻ cho các hệ thống thông tin được triển khai toàn ngành. Ngay từ giai đoạn lên ý tưởng, ngành GDĐT Thành phố Hồ Chí Minh đã lựa chọn mô hình kiến trúc trục tích hợp dữ liệu thay vì mô hình phần mềm dùng chung. Các thành phần của mô hình được lựa chọn bao gồm:

- Cơ sở dữ liệu ngành: lưu trữ tất cả dữ liệu của ngành GDĐT, những dữ liệu này có thể được truy cập bởi những hệ thống được phép thông qua các API.
- Nền tảng tích hợp dữ liệu: sử dụng để tích hợp dữ liệu từ các nguồn khác nhau vào Cơ sở dữ liệu ngành và chia sẻ dữ liệu từ Cơ sở dữ liệu ngành đến các hệ thống liên thông bằng cách công bố các chuẩn dữ liệu và chuẩn kết nối.
- Cơ sở hạ tầng an toàn an ninh thông tin: bao gồm tường lửa, hệ thống phát hiện xâm nhập, phát hiện mã độc, phân tích sâu gói tin, cơ chế mã hóa; được giám sát 24/7 tại Trung tâm Dữ liệu Thành phố.
- Khung quản trị: bao gồm các quy tắc và quy định về cách sử dụng dữ liệu cơ quan nhà nước như Nghị định 13/2023/NĐ-CP về Bảo vệ Dữ liệu cá nhân; chiến lược quản trị dữ liệu của Thành phố Hồ Chí Minh đến năm 2025, định hướng đến năm 2030 của UBND Thành phố; được hiện thực hóa thông qua các văn bản chỉ đạo của Sở Giáo dục và Đào tạo.
Đặc trưng của mô hình này là dữ liệu được thu thập từ nhiều hệ thống khác nhau và chia sẻ lại để tái sử dụng. Giai đoạn đầu triển khai gặp nhiều khó khăn do dữ liệu giữa các hệ thống thiếu đồng nhất về mặt danh mục, định danh; trình độ, nhận thức về dữ liệu của giáo viên, cán bộ phụ trách nhưng trong năm học 2022-2023, những thành tựu của Đề án 06/CP đã có những tác động tích cực lên chất lượng dữ liệu của ngành. Dữ liệu ngành được kết nối với cơ sở dữ liệu dân cư quốc gia để xác thực 5 dữ liệu cơ bản đã tạo ra một cơ chế tin cậy xác thực nhân thân của những cá nhân là đối tượng quản lý của ngành Giáo dục từ đó hạn chế tối đa dữ liệu rác, dữ liệu ảo, nâng cao tính pháp lý và thống nhất định danh cho toàn bộ các hệ thống tham gia vào hệ sinh thái công nghệ giáo dục. Trong năm học 2022-2023, hơn 1,7 triệu hồ sơ học sinh của Ngành GDĐT đã được xác thực định danh với Cơ sở dữ liệu dân cư quốc gia đạt tỉ lệ 99,2%. Đây được xem là Master Data (dữ liệu gốc) của ngành Giáo dục, là nền tảng kỹ thuật bắt buộc phải thực hiện trước khi triển khai những giải pháp chuyển đổi số tiếp theo.
Khai thác dữ liệu tạo ra giá trị
Chương trình Giáo dục phổ thông 2018 với những thay đổi về cách tổ chức lớp học đòi hỏi cấu trúc dữ liệu phải được thiết kế lại theo hướng linh hoạt và dễ dàng mở rộng hơn. Thiết kế phân phối chương trình, xây dựng kế hoạch giáo dục, kế hoạch bài giảng, phân công giảng dạy, thời khóa biểu được thực hiện trên hệ thống đem lại sự tiện lợi cho giáo viên và cán bộ quản lý nhằm theo dõi một cách chính xác theo thời gian thực tiến trình của hoạt động giảng dạy theo từng lớp, từng giáo viên, đảm bảo giáo viên được phân công đủ tiết, tối ưu nguồn nhân lực tại đơn vị.
Dựa vào dữ liệu gốc, ngành GDĐT đã triển khai những giải pháp chuyển đổi số như:
- Trục tuyển sinh đầu cấp sử dụng dữ liệu ngành tạo thuận lợi cho phụ huynh khi không cần nộp hồ sơ giấy, không cần khai báo dữ liệu đã có sẵn.
- Hệ thống thông kê nhu cầu mua sắm thiết bị dạy học tối thiểu theo Chương trình Giáo dục phổ thông 2018 dựa trên dữ liệu học sinh và phân công giảng dạy của nhà trường.
- Sổ đầu bài điện tử được xây dựng dựa trên việc kế thừa dữ liệu phân phối chương trình và kế hoạch giáo dục.
- Số hóa thủ tục chuyển trường, trong đó toàn bộ thông tin, dữ liệu học tập của học sinh được khai thác từ cơ sở dữ liệu ngành, đảm bảo trong suốt quy trình, phụ huynh không cần nộp, bổ sung hồ sơ.
- Các hệ thống quản lý học tập LMS có dữ liệu học sinh, giáo viên, phân công giảng dạy, thời khóa biểu được liên thông từ cơ sở dữ liệu ngành.
Với mô hình liên thông dữ liệu, ngành GDĐT hướng tới mục tiêu: 1 dữ liệu chỉ phát sinh một lần. Tiêu chí này nâng cao tính đồng nhất của dữ liệu, đảm bảo dữ liệu khi chia sẻ liên tục được sử dụng, cập nhật, làm giàu, sửa lỗi… đúng với định hướng “thúc đẩy trao đổi, chia sẻ, sử dụng và tái sử dụng dữ liệu” của Chiến lược Quản trị dữ liệu của Thành phố Hồ Chí Minh và mục tiêu dữ liệu “đúng, đủ, sạch, sống” của Bộ Thông tin và Truyền thông.
Kỳ vọng của Ngành Giáo dục và Đào tạo TP. HCM trong chuyển đổi số
Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đã tạo nên những sản phẩm đặc trưng của nền kinh tế số dựa trên dữ liệu lớn. Với những dữ liệu lớn được tích luỹ trong nhiều năm qua, cùng với sự phát triển của khoa học dữ liệu và các công cụ khai thác dữ liệu, đây là thời gian để ngành GDĐT mong chờ có thể nhìn thấy những sản phẩm, giải pháp mới mang lại nhiều thay đổi tích cực cho cả người học và người dạy. Những kỳ vọng mà ngành GDĐT hướng đến trong việc chuyển đổi số đến năm 2030 như:
- Hệ thống dạy học trực tuyến bất đồng bộ.
- Kho tài nguyên học liệu mở, chia sẻ với các nền tảng dạy học trực tuyến và đáp ứng nhu cầu học tập suốt đời cho người dân.
- Xây dựng lộ trình cụ thể cả về chính sách lẫn công nghệ để có được dữ liệu lớn.
- Trục liên thông dữ liệu, xây dựng nhà kho dữ liệu để chuẩn hóa dữ liệu, xây dựng được Big Data làm nguyên liệu cho các ứng dụng AI.
- Xây dựng các hệ thống phân tích, thống kê, báo cáo làm căn cứ để ra quyết định điều hành cho các cấp quản lý.
- Dựa vào Big Data và AI xây dựng được một môi trường học tập hướng đối tượng, gắn bó chặt chẽ với điều kiện đặc thù và nhu cầu riêng của từng cá nhân người học.
- Khả năng của AI giúp phân tích, theo dõi quá trình học tập của học sinh. Định hướng phát triển bản thân và tự quản lý việc tiếp thu kiến thức một cách phù hợp với năng lực học sinh. Giúp nhà quản lý có những thông tin chính xác để đưa ra quyết định.
- Tận dụng khả năng đảm bảo tính toàn vẹn dữ liệu của công nghệ Block Chain để hạn chế những vấn đề về gian lận như sửa điểm, giả mạo điểm, giả mạo bằng cấp.