[1] Tom wan Weert, Jonathan Anderson. (2002). Information and Communication Technology in Education. Place de Fontenoy 75352 Paris 07 SP, France, p.8
[2] Phạm Thế Khang, Lê Văn Việt. (2015). Giải pháp cụ thể giải quyết vấn đề bản quyền xây dựng học liệu mở ở Việt Nam, Xây dựng nền tảng học liệu mở cho giáo dục đại học Việt Nam. Hà Nội: Nxb Đại học Quốc gia, tr.47.
[3] http://www.oeconsortium.org/faq/what-is-open-courseware/
[4] UNESCO. (2002). Forum on the impact of Open Courseware for higher education in developing countries. Final report. Paris: UNESCO
[5] Anthony William (Tony) Bates. (15/2/2018). Teaching-in-a-digital-age.pdf,
Truy cập từ http://wiki.lib.sun.ac.za/images/f/f3/
- Mở dữ liệu, tức là dữ liệu mở cho mọi người sử dụng, tái sử dụng và phân phối lại, chỉ có chủ đề, tối đa theo yêu cầu để xác định và chia sẻ.
2.2. Vai trò của học liệu mở đối với việc đào tạo và tự đào tạo giáo viên phổ thông hướng tới mô hình trường học thông minh
2.2.1. Học liệu mở đối với các cơ sở đào tạo giáo viên
Sự phát triển của giáo dục phụ thuộc vào việc đưa các thành tựu khoa học – kỹ thuật vào giáo dục[1], trong đó phải kể đến học liệu mở. Tài nguyên học liệu mở là các tài liệu số hoá, trực tuyến, miễn phí và phần lớn tài nguyên không bị đòi hỏi về bản quyền và các quy định về cấp phép sử dụng (Open access (OA) literature is digital, online, free of charge, and free of most copyright and licensing restrictions)[2]. Nguồn tài nguyên học liệu mở đa dạng, phong phú bao gồm giáo án, lịch học, lịch dạy, danh mục tài liệu tham khảo của bài dạy, bài tập trên lớp, bài tập về nhà, bài kiểm tra đánh giá, bài thi giúp người học và người dạy tham khảo, bổ sung kiến thức. Với nguồn học liệu mở rất cần thiết cho người giáo viên nhất là các môn khoa học xã hội và tự nhiên mở rộng các kiến thức trong sách giáo khoa, bổ sung các tri thức mới về các vấn đề mà sách giáo khoa đề cập khái quát hoá hoặc chưa đề cập một cách đầy đủ, tiếp cận các phương pháp dạy học đặc thù của bộ môn xây dựng giáo án, bài giảng trên lớp, xây dựng bài kiểm tra đánh giá học sinh một cách hoàn thiện. Ngoài ra học liệu mở góp phần phổ biến tri thức khoa học giáo dục đến từng cá nhân và gia đình, phối hợp chặt chẽ nhà trường với gia đình trong việc giáo dục nhân cách học sinh hướng tới mô hình trường học thông minh.[3]
Xây dựng học liệu mở và truy cập học liệu mở giáo dục đã khá phổ biến đối với giáo dục thế giới. Với khả năng dễ chia sẻ, thích nghi trong môi trường học tập thông minh trong thế kỷ 21, học liệu mở hỗ trợ rất hiệu quả cho áp dụng các hình thức phương pháp giảng dạy và học tập hiện nay trong nhà trường phổ thông. Muốn áp dụng OCW và OER cho nhà trường phổ thông hiện nay, thì giáo viên các bộ môn khoa học xã hội và tự nhiên cần được đào tạo về cách xây dựng và triển khai hệ thống học liệu mở trong nhà trường phổ thông hiện nay.
Sự xuất hiện của công nghệ thông tin truyền thông ICT và học liệu mở OCW cùng với áp lực đổi mới chương trình giáo dục phổ thông giai đoạn hiện nay, đòi hỏi ngành giáo dục và các bộ ngành liên quan phải có kế hoạch trong việc xây dựng, quản lý và phát triển học liệu mở không chỉ ở các trường đại học mà còn cần thiết đối với các nhà trường phổ thông hiện nay trong việc hội nhập khu vực và thế giới. Hiện nay ở Việt Nam chỉ tồn tại một số ít website tiêu biểu cho việc áp dụng nguồn học liệu mở cụ thể như website học liệu mở của Bộ Giáo dục và đào tạo (http://edu.net.vn/media/84/default.aspx), nhưng nguồn tài liệu ở đây chưa phong phú về nội dung, chưa chú ý đến việc áp dụng các học liệu này cho việc đổi mới chương trình sách giáo khoa mới, nhất là các môn khoa học như toán, ngữ văn, lịch sử, địa lý, vật lý, hoá học, sinh học... ở bậc phổ thông thì nguồn học liệu mở này còn quá ít và không được cập nhật thường xuyên và liên tục!
2.2.2. Học liệu mở gắn với quá trình đào tạo giáo viên phổ thông
Nội dung giảng dạy và học tập của các môn khoa học tự nhiên và xã hội hiện nay cần người dạy và người học quan tâm nghiên cứu vô cùng rộng lớn, đa dạng và hết sức phức tạp. Rất khó có thể hình dung về lượng của những khoa học đó trong lịch sử hình thành và phát triển của nó, trong xu hướng phân ngành, liên ngành và hợp ngành thường xuyên diễn ra trong lịch sử khoa học và thực tế.
Học liệu và nhất là học liệu mở cho việc đào tạo giáo viên các môn khoa học hiện nay chưa được cập nhật, bổ sung, hoàn thiện các tri thức mới. Hiện nay, người giáo viên các môn khoa học xã hội và tự nhiên chỉ được giảng dạy kiến thức về các môn khoa học được thể hiện trong sách giáo khoa phổ thông, kiến thức dạy và học không được cập nhật thường xuyên, đa phần còn không ít lạc hậu. Đa số sinh viên nhất là sinh viên sư phạm còn học tập các sách, giáo trình của các thập niên trước đây, vấn đề cập nhật học liệu trong sách giáo khoa bậc đại học, bậc phổ thông các môn khoa học xã hội còn chưa phù hợp về kênh hình, kênh chữ, thiếu tài liệu tham khảo giảng dạy các vấn đề khoa học xã hội, thiếu chỉ mục “Index”, “Key Term”, “Key Event”...[4] như trong sách giáo khoa phổ thông của các nước có nền giáo dục tiên tiến trên thế giới.
Việc phát triển học liệu mở hiện nay mới chỉ triển khai ở các trường đại học của Việt Nam, còn ở bậc phổ thông thì vấn đề này còn khá mới mẻ, chưa được đầu tư đúng mức và hầu như chưa có gì, thậm chí ngay cả tại thành phố Hồ Chí Minh. Sự cần thiết cho việc đào tạo và đào tạo lại giáo viên phổ thông các môn khoa học xã hội cập nhật các kiến thức mới cho chương trình sách giáo khoa bậc phổ thông mới. Người thầy cần được tập huấn để nâng cao năng lực trong phát triển các kỹ năng đánh giá học liệu mở, năng lực thu thập và địa phương hoá nguồn học liệu mở phù hợp với điều kiện của nhà trường phổ thông để có thể vận dụng vào việc cải tiến chất lượng bài dạy phong phú, đa dạng và mang tính thực tiễn.
Đội ngũ giáo viên phổ thông là thành phần quan trọng đối với việc dạy tốt và học tốt của trường phổ thông. Học liệu mở hỗ trợ đào tạo người giáo viên phổ thông một cách thiết thực, giúp đẩy nhanh sự phát triển và tham gia nghề nghiệp của người giáo viên. Giáo viên có vai trò then chốt trong giáo dục, cho nên việc tham gia đào tạo và đào tạo lại là rất quan trọng. Tính thích ứng, tự thay đổi, sửa chữa nội dung của học liệu mở giáo dục hỗ trợ tốt cho giáo viên, sinh viên sư phạm trong việc sử dụng, áp dụng phù hợp vào môi trường giáo dục đào tạo của cá nhân. Ngoài ra học liệu mở còn tạo ra môi trường tương tác giữa người dạy và người học, góp phần rèn luyện người học khả năng tích cực, chủ động, sáng tạo và tìm tòi cái mới, góp phần vào việc hình thành nhân cách người học. Vấn đề này đòi hỏi các cơ sở đào tạo giáo viên phổ thông cần phải chủ động trong quá trình tiếp cận các xu hướng mới trên thế giới để điều chỉnh chương trình đào tạo phù hợp với sự phát triển của trường, từ đó dẫn đến sự nhận thức của sinh viên sư phạm cần thay đổi theo định hướng mới.
Các môn khoa học xã hội và tự nhiên ở nhà trường phổ thông hiện nay như ngữ văn, lịch sử, địa lí, toán, vật lý, hoá học, sinh học được xem là các môn học khô khan, chưa hấp dẫn người dạy lẫn người học, do nhiều nguyên nhân trong đó không thể không kể đến việc thiếu tài liệu tham khảo, trích dẫn các vấn đề còn đang nghiên cứu, đánh giá với các luận cứ khoa học khác nhau, thiếu các học liệu mở để cả thầy và trò củng tham khảo, nghiên cứu các chuyên đề văn học, sự kiện lịch sử, địa lí, vật lý, hoá học, sinh học một cách cụ thể, liên ngành, và người học cần tìm hiểu sâu hơn các bài giảng, bài đọc thêm. Chia sẻ tri thức, tài liệu giảng dạy, học tập là một trong những mục tiêu chính của các hoạt động đối với học liệu mở, cần thiết cho một xã hội học tập, xã hội tri thức ngày nay.
Cơ sở dữ liệu, học liệu mở xây dựng trên nền tảng công nghệ thông tin và truyền thông (ICT) được sử dụng như các công cụ để phát triển kỹ năng tư duy, tạo điều kiện cho tư duy phê phán và học tập cao hơn từ người học. Những công cụ này cho phép người học thể hiện những gì họ biết vào thực tế. Người học sẽ tự xây dựng cơ sở tri thức cho cá nhân có liên quan và các kiến thức có ý nghĩa đối với họ, thu hút người học trong suy nghĩ và học tập[5].
Học liệu mở cùng với học tập từ xa (Open and Distance Learning - ODL) đã được chấp nhận và không thể thiếu được của các hệ thống giáo dục trên thế giới, ở cả các nước phát triển và đang phát triển, và đặc biệt là ở các nước đang phát triển. Trên toàn cầu, ODL được coi là một cách tiếp cận quan trọng mới trong nỗ lực giải quyết các vấn đề tiếp cận tri thức, chất lượng và công bằng trong giáo dục[6]. Sự tăng trưởng của ODL đã được thúc đẩy bởi hai yếu tố - những tiến bộ kỹ thuật đã cho phép nhiều môn học hơn được dạy ở xa, và nhu cầu của giáo dục toàn cầu về kỹ năng nâng cao và đào tạo liên tục.
Hiện nay, học liệu mở cần thiết cho việc dạy học tự phát hiện trong các môn khoa học xã hội và tự nhiên, thu hút cả giáo viên và học sinh, học viên tham gia vào các hoạt động dạy và học nhằm giúp người học hiểu các khái niệm và định nghĩa mới được cập nhật theo thời gian, các số liệu, dữ liệu, tài liệu có liên quan đến bài học. Các hoạt động giáo dục khi cần đến học liệu mở sẽ giúp cả người dạy và người học tiếp cận, hiểu về những thông tin mới về các vấn đề khoa học tự nhiên và xã hội được cập nhật một cách liên tục, có hệ thống. Trong các hoạt động khám phá tri thức khoa học dựa vào kho học liệu mở, người học dưới sự hướng dẫn của người thầy sẽ tham gia vào quá trình tìm kiếm, xử lý, suy luận, dự đoán và phân loại đúng sai khi xem xét, đánh giá các nhân vật, sự kiện và vận dụng vào thực tế cuộc sống.
Việc đổi mới chương trình giáo dục phổ thông mới của giáo dục Việt Nam sắp tới đã cụ thể hoá chuẩn đầu ra với mục tiêu phát triển phẩm chất và năng lực của người học. Chuẩn đầu ra của từng cấp học của giáo dục phổ thông bao gồm hệ thống các phẩm chất, năng lực chung và năng lực chuyên biệt của đối tượng giáo dục, trong đó mỗi một năng lực được thể hiện thông qua các tiêu chí, các biểu hiện cụ thể, hợp lý, logic. Phương pháp kiểm tra và đánh giá kết quả năng lực người học đòi hỏi xác định một cách chi tiết, bao quát, tổng thể. Việc xác định nội dung cơ bản, cốt lõi của giáo dục phổ thông trong từng môn học khoa học tự nhiên hay khoa học xã hội với chuẩn đầu ra sẽ là căn cứ cho việc biên soạn sách giáo khoa, nếu xây dựng nền tảng cơ sở dữ liệu, học liệu mở sẽ góp phần không nhỏ trong việc kiểm tra, đánh giá kết quả giáo dục thông qua kiến thức truyền tải đến học sinh.
2.2.3. Bước đầu xây dựng cơ sở nguồn học liệu mở tại trường Đại học Sài Gòn
- Trường Đại học Sài Gòn trong những năm vừa qua đã có chiến lược chuyển từ hệ thống giáo dục còn cứng nhắc, biệt lập sang hệ thống giáo dục mở, liên thông[7]. Trường Đại học Sài Gòn đã và đang tham gia đào tạo cho giáo viên các cấp học, đào tạo lại giáo viên phục vụ cho việc thay sách giáo khoa theo chương trình giáo dục đào tạo phổ thông 2018 qua dịch vụ trực tuyến, đào tạo trực tiếp tại chỗ, thông qua việc chia sẻ các nguồn dữ liệu, học liệu mở, tiết kiệm thời gian, kinh phí đào tạo và thời gian tự đào tạo của giáo viên. Bên cạnh đó, bước đầu trường đã xây dựng các học liệu mở modul BDTX cho giáo viên mầm non triển khai trong năm học 2020 cho đến năm 2022.
Nguồn: Phòng đào tạo thường xuyên-Trường Đại học Sài Gòn
[7] Trường Đại học Sài Gòn. (2018). Chiến lược phát triển trường Đại học Sài Gòn đến năm 2025 và tầm nhìn 2035.Tp. Hồ Chí Minh, tr.9.
Ngoài ra, trên cơ sở nguồn học liệu được xây dựng, Đại học Sài Gòn đã liên kết với các quận, huyện trong thành phố và các tỉnh bạn trong việc BDTX giáo viên các cấp học. Đại học Sài Gòn phối hợp với Sở Giáo dục và đào tạo và các Phòng giáo dục và đào tạo quận, huyện đã BDTX giáo viên mầm non với số lượng 9642 giáo viên (năm 2021) và 9610 giáo viên (năm 2022). Năm học 2020-2021, trường cũng đã phối hợp với tỉnh Tây Ninh, Sở giáo dục tỉnh Tây Ninh trong việc BTTX đào tạo cho giáo viên của tỉnh với số lượng là 10.054 người.

Nguồn: Phòng đào tạo thường xuyên-Trường Đại học Sài Gòn

Nguồn: Phòng đào tạo thường xuyên-Trường Đại học Sài Gòn
Hiện nay những thay đổi về học liệu mở trong việc đào tạo giáo viên, nhất là giáo viên các ngành khoa học tự nhiên và xã hội còn gặp phải nhiều thách thức, khó khăn về mặt chủ quan và khách quan: chi phí cho việc đào tạo giáo viên, đào tạo lại giáo viên, chi phí in ấn tài liệu, sách giáo khoa, chi phí cho việc đào tạo và đào tạo lại giáo viên nhằm phục vụ cho việc thay đổi chương trình sách giáo khoa mới. Vì vậy, trường Đại học Sài Gòn tiếp tục xây dựng và phát triển nguồn học liệu mở trong việc đào tạo, đào tạo lại giáo viên tiểu học và trung học cơ sở trong quá trình tiếp cận chương trình giáo dục phổ thông 2018.
3. Một số khuyến nghị trong xây dựng nguồn học liệu mở gắn liền với nâng cao chất lượng đào tạo giáo viên phổ thông tại thành phố Hồ Chí Minh
3.1. Đối với các cơ sở đào tạo giáo viên tại thành phố Hồ Chí Minh
- Các trường đại học, Viện nghiên cứu giáo dục ở thành phố Hồ Chí Minh trong đó có Đại học Sài Gòn cần có những nghiên cứu, đánh giá khoa học về tầm quan trọng của học liệu mở trong việc xây dựng chương trình đào tạo giáo viên phổ thông các môn khoa học đáp ứng chương trình giáo dục phổ thông mới. Sở Giáo dục và Đào tạo thành phố cần tham mưu và kiến nghị với Bộ Giáo dục và Đào tạo và các bộ ngành liên quan xây dựng và ban hành các văn bản pháp quy làm căn cứ để phát triển học liệu mở trong các trường đại học sư phạm và trường đại học đa ngành, đa lĩnh vực tại thành phố. Bên cạnh đó, các cơ sở đào tạo nguồn nhân lực cho giáo dục cần tập trung hơn vào việc đào tạo STEM và phát huy phương pháp học tích cực để người tốt nghiệp có kỹ năng đáp ứng cho nhu cầu công nghiệp[1].
- Sở Giáo dục và Đào tạo thành phố Hồ Chí Minh cùng với các trường THPT và Phòng Giáo dục và Đào tạo quận/huyện xây dựng hệ thống dữ liệu, tài liệu số hóa, bổ sung thêm các nguồn tư liệu phục vụ cho giáo viên phổ thông, thực hiện mục tiêu đáp ứng nhu cầu sử dụng, khai thác thông tin, tài liệu của học sinh, học viên và giáo viên.
- Thực hiện chia sẻ nguồn dữ liệu, tài liệu từ các trường đại học cho các trường phổ thông trên địa bàn thành phố, tạo sự liên kết gắn bó giữa nơi đào tạo và nơi sử dụng nguồn nhân lực giáo viên, phục vụ cho việc đào tạo giáo viên ngay tại cơ sở, hỗ trợ hoạt động dạy và học tại ngay nhà trường phổ thông mà giáo viên giảng dạy sau này.
- Trường Đại học Sài Gòn cùng với Sở Giáo dục và Đào tạo Tp. Hồ Chí Minh cần cùng nhau phối hợp thực hiện các chương trình đào tạo, hành động quảng bá OCW tại các cơ sở đào tạo sư phạm, góp phần vào việc nâng cao chất lượng đào tạo sinh viên sư phạm, đào tạo lại giáo viên các cấp. Người học sẽ có nhiều cơ hội, phương tiện để tìm kiếm tài liệu nghiên cứu, học tập, đào tạo, đào tạo lại, tự đào tạo nhằm phát huy năng lực trong việc tiếp cận, tích luỹ, bổ sung thêm các nguồn tri thức, học liệu giáo dục của thành phố Hồ Chí Minh vào nguồn dữ liệu giáo dục chung của giáo dục của cả nước Việt Nam. Đây là vấn đề quan trọng mang tính hệ thống, đòi hỏi có sự chung tay góp sức của xã hội và các cấp quản lý giáo dục tại thành phố liên quan trên nền tảng nhận thức đúng đắn tầm quan trọng của cơ sở dữ liệu – học liệu mở trong sự nghiệp đổi mới giáo dục phổ thông của thành phố Hồ Chí Minh hiện nay.
3.2. Đối với nhà trường phổ thông ở thành phố Hồ Chí Minh
- Mỗi nhà trường phổ thông tại thành phố cần nhận thức và đánh giá đúng đắn về tầm quan trọng của công nghệ thông tin nói chung và học liệu mở nói riêng đối với quá trình phát triển, đổi mới chương trình và sách giáo khoa sắp tới trên phạm vi cả nước. Nhà trường chấp nhận sự thử nghiệm và thách thức, biết học hỏi cái mới, giáo viên được đặt vào vị thế sẵn sàng cho sự thay đổi[2].
- Sở Giáo dục và Đào tạo thành phố Hồ Chí Minh cùng với Phòng Giáo dục và Đào tạo quận/huyện và nhà trường phổ thông cần có kế hoạch, chương trình tập huấn về OCW, hỗ trợ những kiến thức cơ bản về OCW cho cán bộ quản lý, giáo viên và học sinh tham gia vào bước đầu xây dựng tài nguyên cơ sở dữ liệu, học liệu mở cho mỗi nhà trường phổ thông ở các địa phương. Ngoài ra, nhà trường phổ thông có thể phối hợp đồng bộ cùng với các trường sư phạm tại địa phương trong việc bồi dưỡng, xây dựng đội ngũ giáo viên có kiến thức cơ bản về ICT và OCW để tạo nguồn cho việc xây dựng cơ sở dữ liệu, học liệu ban đầu tại cơ sở.
- Cần xây dựng bước đầu nguồn học liệu mở đối với cá nhân mỗi giáo viên, bộ môn, tổ nhóm bộ môn trong nhà trường phổ thông tại thành phố. Học liệu mở có chất lượng là một trong những tiền đề quan trọng, cung cấp thông tin, cơ sở dữ liệu nghiên cứu bài học, tài liệu học tập, tham khảo và giảng dạy trong bối cảnh đổi mới giáo dục hiện nay ở thành phố Hồ Chí Minh.
3.3. Đối với giáo viên phổ thông giảng dạy các bộ môn khoa học xã hội và tự nhiên
- Mỗi giáo viên các môn khoa học phải không ngừng đào tạo và tự đào tạo sau khi tốt nghiệp các trường sư phạm. Việc tự đào tạo là sự cần thiết cho quá trình tiếp cận các nguồn thông tin mới, cập nhật các kiến thức của bộ môn hỗ trợ cho việc giảng dạy tại nhà trường phổ thông, bản thân mỗi giáo viên cần tự đào tạo thông qua các học liệu mở ngay trong tổ, nhóm bộ môn và thư viện của từng nhà trường phổ thông nơi giáo viên đang công tác.
- Giáo viên các môn khoa học xã hội và tự nhiên cần có bước đầu áp dụng công nghệ thông tin trong kiểm tra, đánh giá năng lực học sinh thông qua hệ thống học liệu mở, E-learning, thông qua các bài tập mở, thiết kế, tạo diễn đàn học tập (thông qua facebook, thiết kế google sites [3]...) để học sinh tham gia hoạt động thảo luận, trao đổi, góp ý, làm việc nhóm và nộp bài kiểm tra của cá nhân và nhóm học sinh ngay tại nhà trường phổ thông.
- Giáo viên các môn khoa học cũng cần thiết chia sẻ tri thức về học liệu mở và kinh nghiệm giảng dạy, Guntram Geser đã nêu ra vấn đề này: “...Các nhà giáo dục thì nên luôn luôn chia sẻ những kinh nghiệm giảng dạy từ đó thiết kế lên những mô hình dạy học và chia sẻ tri thức gồm cả hoạt động thiết kế bài giảng, chia sẻ kinh nghiệm giảng dạy hay xây dựng mô hình học tập...” [4]. Đây còn là một hoạt động nhân văn đầy ý nghĩa trong giáo dục, đó là văn hoá trong giáo dục, văn hoá cộng tác và chia sẻ trên tinh thần tự nguyện “mình vì mọi người, mọi người vì mình” thúc đẩy một xã hội học tập phát triển trong mỗi con người, mỗi thế hệ Việt Nam hôm nay và mai sau.
- Giáo viên các môn khoa học hiện nay cần chia sẻ các nội dung sách giáo khoa số hoá cho các đồng nghiệp, các giáo viên có thể điều chỉnh bài dạy theo tính địa phương và phù hợp với khả năng của từng đối tượng học sinh là các dân tộc thiểu số, học sinh các vùng còn khó khăn về kinh tế, học sinh vùng xâu, vùng xa tại địa bàn thành phố Hồ Chí Minh. Thông qua học liệu mở hướng tới trường học thông minh, người giáo viên phổ thông cũng cần phải biết khơi gợi cho học sinh tìm tòi, suy nghĩ, tiếp cận, đánh giá, phản biện các nguồn dữ liệu, thông tin khoa học, góp phần giải quyết tốt các vấn đề mà bài giảng của giáo viên đưa ra. Nguồn học liệu mở còn được xây dựng trên cơ sở văn hoá và đạo lý Việt Nam, phù hợp với triết lý giáo dục Việt Nam, cho phép mọi người học, mọi công dân ở thành phố Hồ Chí Minh nói riêng và Việt Nam nói chung được phép truy cập, sử dụng với mục đích học tập và tự học tập suốt đời.
4. Kết luận
Học liệu mở đang là xu thế mới của giáo dục và đào tạo hiện nay trên thế giới trong việc tạo ra và chia sẻ tri thức. Với sự phát triển của Internet, công nghệ số và lưu trữ trực tuyến hiện nay đang tạo ra môi trường thuận lợi cho OCW phát triển nhất là ở thành phố Hồ Chí Minh, một trung tâm văn hoá, khoa học – kỹ thuật và giáo dục đi đầu cả nước. Trong quá trình hội nhập với khu vực và thế giới, giáo dục phổ thông ở thành phố Hồ Chí Minh cần phải là hoạt động đi đầu, hoạt động phong phú diễn ra cả về các loại hình, không gian, thời gian, lý luận gắn liền với thực tế, học đi đôi với hành, việc học tập không chỉ tiến hành trong nhà trường, mà có thể tiến hành ở bất cứ ở đâu, bất cứ lúc nào, cơ hội học tập dành cho tất cả mọi người; giáo dục chuyển dần từ dạy kiến thức chuyên môn sang tự học, tự nghiên cứu, tự đào tạo bằng các nguồn học liệu để người học tiếp nhận, xử lý và giải quyết thông tin[5]. Thành phố Hồ Chí Minh cùng cả nước đang trong quá trình đổi mới giáo dục, trong đó giáo dục phổ thông, rất cần nguồn cơ sở dữ liệu, học liệu mở trên cả phương diện số lượng lẫn chất lượng. Vấn đề đào tạo giáo viên phổ thông các môn khoa học không thể tách rời khỏi việc xây dựng nền tảng học liệu mở. Hiện nay, tại các cơ sở trường Đại học, Viện đào tạo giáo viên phổ thông tại thành phố Hồ Chí Minh nói chung và Đại học Sài Gòn nói riêng cần tiếp tục xây dựng nguồn thông tin, tài liệu tại thư viện, tạo điều kiện phát triển nguồn học liệu mở hướng tới giáo dục mở, thông minh trong quá trình đào tạo giáo viên các môn khoa học thích ứng với xu hướng chung của giáo dục toàn cầu.
Quá trình nhận thức và xây dựng cơ sở dữ liệu – nguồn học liệu mở OCW với định hướng giáo dục thông minh cho giáo dục phổ thông tại thành phố Hồ Chí Minh bước đầu chắc chắn sẽ có nhiều khó khăn, thách thức, nhất là trong việc đào tạo, tự đào tạo và đào tạo lại giáo viên phổ thông các bộ môn khoa học xã hội và tự nhiên, nhằm thực hiện chương trình sách giáo khoa mới nhưng điều quan trọng ở đây là mỗi giáo viên, mỗi một nhà trường phổ thông và các trường đại học sư phạm trên địa bàn thành phố cần phải có chung một mục đích giáo dục, tạo được sự chuyển biến về hiệu quả và chất lượng giáo dục, định hướng xây dựng giáo dục thành phố Hồ Chí Minh cùng với giáo dục cả nước ngày càng hội nhập sâu rộng trong khu vực và thế giới./.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
- Anthony William (Tony) Bates. (15/2/2018). Teaching-in-a-digital-age.pdf,
Truy cập từ http://wiki.lib.sun.ac.za/images/f/f3/
- Guntram Geser. Open Educational Practices and Resources. EduMedia Group, http://www.olcos.org/cms/upload/docs/olcos_roadmap.pdf.
- Vũ Lan Hương. (2017). Quản lý sự thay đổi – Lý thuyết và thực hành. Hà Nội: Nxb Giáo dục Việt Nam.
- John Vũ. (2016). Giáo dục trong thời đại tri thức. Hà Nội: Nxb Lao động
- Lê Văn Năm - Trần Hùng Minh Phương. (2016). Thiết kế websie bằng google sites hỗ trợ dạy học Hoá học ở trung học cơ sở theo hướng dạy học tích cực.Tạp chí Giáo dục và Xã hội, số 59 (120), 9-11, 16.
- Lý Việt Quang. (2017). Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục với vấn đề đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục Việt Nam hiện nay. Hà Nội: Nxb Chính trị Quốc gia.
- Phạm Minh Hạc. (1997). Giáo dục nhân cách đào tạo nhân lực. Hà Nội: Nxb Chính trị Quốc gia.
- Phạm Thế Khang, Lê Văn Việt. (2015). Giải pháp cụ thể giải quyết vấn đề bản quyền xây dựng học liệu mở ở Việt Nam, Xây dựng nền tảng học liệu mở cho giáo dục đại học Việt Nam. Hà Nội: Nxb Đại học Quốc gia.
- Peter Suber. (2012). Open Access. Massachusetts: The MIT Press. http://mitpress.mit.edu/sites/default/files/9780262517638_Open_Access_PDF_Version.pdf
- Salomon, G. & Globerson, T. (1987). When teams do not function they ought to. International Journal of Educational Research, 13, 89–100.
- Tom wan Weert, Jonathan Anderson. (2002). Information and Communication Technology in Education. Place de Fontenoy 75352 Paris 07 SP, France.
- Thái Duy Tuyên. (1999). Những vấn đề cơ bản giáo dục học hiện đại. Hà Nội: Nxb Giáo dục.
- Trần Hùng Minh Phương. (2017). “Cách mạng Tháng Mười Nga” trong sách giáo khoa lịch sử bậc phổ thông ở Việt Nam nhìn dưới góc độ giáo dục. Kỷ yếu hội thảo khoa học “Cách mạng Tháng Mười Nga”. Tp. Hồ Chí Minh: Đại học Sư phạm.
- Trường Đại học Sài Gòn. (2018). Chiến lược phát triển trường Đại học Sài Gòn đến năm 2025 và tầm nhìn 2035.Tp. Hồ Chí Minh.
- UNESCO. (2002). Open and Distance Learning: Trends, Policy and Strategy Considerations. p3. Available at http://unesdoc.unesco.org/images/0012/001284/128463e.pdf.
Accessed 4 December 2008.
- UNESCO. (2002). Forum on the impact of Open Courseware for higher education in developing countries. Final report. Paris: UNESCO
http://www.oeconsortium.org/faq/what-is-open-courseware/