ICDL Việt Nam
Thế giới ngày càng được số hoá một cách mạnh mẽ. Trong những năm gần đây, xu hướng xây dựng khung năng lực số để đánh giá kĩ năng sử dụng công nghệ của công dân, giúp các nhà hoạch định chính sách xây dựng các chính sách hỗ trợ tăng cường kĩ năng số cho công dân và lập kế hoạch để cải thiện kĩ năng cho toàn dân. Uỷ ban châu Âu (European Commission) đã xây dựng khung đánh giá năng lực kỹ thuật số chuẩn châu Âu DigComp và UNESCO đã xây dựng khung năng lực kỹ thuật số toàn cầu DLGF (Digital Literacy Global Framework) làm tham số đánh giá năng lực kỹ thuật số cho Mục tiêu phát triển bền vững của Liên Hiệp Quốc. Các khung năng lực này cũng được mở rộng cho để đánh giá năng lực số cho các nhóm đối tượng đặc thù như Khung năng lực số cho người tiêu dùng (DigCompConsumers), Khung năng lực Khởi nghiệp (EntreComp), Khung năng lực số cho các tổ chức giáo dục (DigCompOrg), Khung năng lực số cho các nhà giáo dục (DigCompEdu).
Đóng vai trò là một tổ chức quốc tế hàng đầu trong lĩnh vực khảo thí và đánh giá kĩ năng Công nghệ thông tin (CNTT), Tổ chức ICDL cũng đã tham gia xây dựng, đóng góp và chia sẻ kinh nghiệm, ý kiến vào việc xây dựng khung năng lực chuẩn châu Âu DigComp cũng như đóng vai trò dẫn dắt, phát triển Khung năng lực châu Âu (e-Competence Framework for ICT Users). Những đóng góp của Tổ chức ICDL cho quá trình xây dựng DigComp đã được kiểm chứng bởi một nghiên cứu độc lập được thực hiện bởi UNESCO. Khi xác định các khung năng lực cấp địa phương, quốc gia và quốc tế, nghiên cứu đã nhấn mạnh ICDL là một ví dụ về khung năng lực số ở một số quốc gia và chỉ ra rằng có 177 kết quả đầu ra (learning outcomes) từ các mô-đun của ICDL ánh xạ tới khung năng lực DigComp và kiến thức được dạy trong ICDL bao phủ rộng hơn 8 khung năng lực số quốc tế khác. Một báo cáo khác của UNICEF cũng đã chỉ ra rằng, các mô-đun của ICDL đã được ứng dụng làm khung năng lực số tại 31 quốc gia và vùng lãnh thổ.
Dựa vào kết quả đạt được của việc xây dựng một khung năng lực chuẩn cấp châu lục như DigComp, chúng ta có thể thấy những lợi ích như sau: (i) năng lực được công nhận bởi khung này có thể được áp dụng rộng rãi tại các quốc gia trong khu vực; (ii) những kỹ năng được chứng nhận bởi khung này giúp các nhà tuyển dụng và người lao động nắm rõ hơn yêu cầu của công việc và năng lực của ứng viên; (iii) các nhà giáo dục có một cơ sở chắc chắn để phát triển các khoá học và kỳ thi đánh giá năng lực; (iv) chính phủ có cơ sở thống kê năng lực số của quốc gia để đưa ra những chính sách phù hợp nhằm phát triển kỹ năng số, chuyển đổi số bắt kịp với tốc độ của châu lục và quốc tế.
Trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo, cần thiết phải xây dựng một khung năng số cho học sinh phổ thông, làm tiền đề để phát triển chương trình và các tài liệu giảng dạy nhằm đánh giá một cách khách quan kĩ năng số của học sinh và là thước đo một cách chính xác mức độ chuyển đổi số trong lĩnh vực giáo dục. Khung năng lực số cho học sinh này phải là một phần của khung năng lực số cho công dân nói chung, tuy nhiên vẫn cần có những đặc trưng riêng cho học sinh phổ thông và đáp ứng một số yêu cầu về quan điểm và nguyên tắc khi triển khai như: “kế thừa và phát triển ưu điểm của chương trình môn Tin học hiện nay”, “khai thác các khung năng lực số quốc tế một cách chọn lọc”, “đảm bảo tính hội nhập quốc tế, công nhận lẫn nhau giữa các nước trong khu vực và trên thế giới”… Tại thời điểm hiện tại, một nhóm các nhà nghiên cứu thuộc Viện Khoa học giáo dục Việt Nam đang xây dựng dự thảo khung năng lực số cho học sinh phổ thông Việt Nam với mong muốn góp phần cung cấp thông tin cho các nhà nghiên cứu về cách tiếp cận xây dựng năng lực số của trẻ em trong nhà trường hiện này trên thế giới và tại Việt Nam.
Với kinh nghiệm tham gia xây dựng, chia sẻ kinh nghiệm thực tế trong việc khảo thí và đánh giá năng lực công nghệ số cho hơn 17 triệu thí sinh qua hơn 80 triệu bài thi trên toàn thế giới, Tổ chức ICDL mong muốn đóng góp kinh nghiệm của mình cho quá trình chuyển đổi số của thành phố thông qua đề án “Nâng cao năng lực, kiến thức, kỹ năng ứng dụng Tin học cho học sinh phổ thông Thành phố Hồ Chí Minh, theo định hướng chuẩn Quốc tế giai đoạn 2021 – 2030” được UBND Thành phố phê duyệt ngày 8/3/2021.
Những nội dung đã được triển khai trong chương trình Tin học quốc tế ICDL theo Đề án của thành phố vừa đáp ứng được yêu cầu nâng cao năng lực, kiến thức, kĩ năng cho học sinh phổ thông trên địa bàn thành phố, vừa tiệm cận đến khung năng lực số của châu Âu DigComp. Các môn theo chương trình Tin học quốc tế bao gồm:
Cấp Tiểu học:
- Làm quen với thế giới số (First Steps)
- Làm quen với các ứng dụng máy tính (Application Basics)
- Làm quen với mạng trực tuyến (Online Basics)
Cấp THCS:
- Cơ bản về Công nghệ thông tin và truyền thông (Computer Essentials)
- Cơ bản về mạng trực tuyến (Online Essentials)
- Xử lý văn bản (Documents)
- Sử dụng trình chiếu (Presentation)
- Sử dụng bảng tính (Spreadsheets)
Cấp THPT - mạch Tin học ứng dụng nâng cao
- Xử lý văn bản nâng cao (Documents (Advanced))
- Sử dụng trình chiếu nâng cao (Presentations (Advanced))
- Sử dụng bảng tính nâng cao (Management Spreadsheets)
Cấp THPT - mạch Khoa học máy tính
- An toàn và bảo mật CNTT (Cyber Security)
- Cộng tác trên mạng trực tuyến (Online Collaboration)
- Điện toán và lập trình (Computing)
- Sử dụng hệ quản trị Cơ sở dữ liệu (Using Databases)
Ví dụ: Tại cấp THCS, học sinh được tiếp cận 5 mô-đun quốc tế bao gồm:
Lớp 6: Cơ bản về Công nghệ thông tin và truyền thông (Computer Essentials) và mô-đun Cơ bản về mạng trực tuyến (Online Essentials). Hai mô-đun này chỉ dẫn cho học sinh những khái niệm và kĩ năng cần thiết liên quan đến Công nghệ thông tin và truyền thông cũng như những kiến thức và kĩ năng cần thiết khi sử dụng mạng Internet. Tham chiếu theo khung đánh giá năng lực châu Âu, hai nội dung này đáp ứng được 5/5 miền lĩnh vực, bao gồm (i) thành thạo thông tin và dữ liệu; (ii) giao tiếp và cộng tác; (iii) sáng tạo nội dung số; (iv) an toàn và (iv) khả năng giải quyết vấn đề.
Tương tự, tại lớp 7 và lớp 8, học sinh được tiếp cận các nội dung như Xử lý văn bản (Documents), Sử dụng trình chiếu (Presentation), Sử dụng bảng tính (Spreadsheets), đáp ứng được 2/5 miền lĩnh vực của khung năng lực số châu Âu là (i) sáng tạo nội dung số; và (ii) khả năng giải quyết vấn đề.
Với các cấp học khác, vui lòng xem bảng ánh xạ tóm tắt dưới đây để có thêm thông tin về tính đáp ứng của chương trình Tin học quốc tế ICDL với khung năng lực số châu Âu Digcomp.

Chương trình Tin học quốc tế ICDL hiện đang được triển khai tại các trường phổ thông trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh. Với hơn 20 năm kinh nghiệm trong việc triển khai các chương trình đào tạo, chuẩn hoá năng lực số và khảo thí, đánh giá kĩ năng số trên toàn thế giới, các chuyên gia hàng đầu của Tổ chức ICDL đã xây dựng một chương trình Tin học quốc tế dành riêng cho học sinh phổ thông, với hệ thống kiến thức chọn lọc và tập trung vào 3 mạch tri thức là Công nghệ thông tin và truyền thông (ICT), Khoa học máy tính (Computer Science), Năng lực công nghệ số (Digital Literacy). Đây cũng chính là 3 mạch tri thức trong chương trình giáo dục phổ thông năm 2018 được ban hành theo thông tư 32/2018/TT-BGDĐT.
Chương trình được các chuyên gia hàng đầu của Hội liên hiệp các Tổ chức Tin học châu Âu (CEPIS) xây dựng và đã được triển khai rộng rãi tại nhiều quốc gia trên thế giới, với 6 thành tố tạo nên hệ sinh thái của chương trình, bao gồm:
(1) Khung chương trình
(2) Tài liệu bổ trợ theo từng môn học
(3) Hệ thống đào tạo trực tuyến thân thiện với người sử dụng
(4) & (5) Giáo án điện tử và bài giảng điện tử, hỗ trợ tối đa giáo viên trong quá trình chuẩn bị bài giảng và giảng dạy
(6) Bài thi chứng chỉ quốc tế ICDL được công nhận trên toàn cầu

Như vậy, với việc triển khai chương trình Tin học quốc tế ICDL theo Đề án “Nâng cao năng lực, kiến thức, kỹ năng ứng dụng Tin học cho học sinh phổ thông Thành phố Hồ Chí Minh, theo định hướng chuẩn Quốc tế giai đoạn 2021 – 2030”, học sinh tham gia chương trình vừa được nâng cao năng lực, kiến thức kĩ năng theo mục tiêu của Đề án, vừa đáp ứng được yêu cầu về năng lực CNTT theo cấp châu lục và quốc tế. ICDL sẵn sàng đồng hành với Sở Giáo dục và Đào tạo trong nhiệm vụ chiến lược này, góp phần vào mục tiêu chuyển đổi số trong lĩnh vực giáo dục của Thành phố./.